Năng lực pháp luật của cá nhân là gì?
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự.
Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau.
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết.
(Điều 16 Bộ luật dân sự 2015)

Nội dung của năng lực pháp luật của cá nhân
Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản.
Quyền sở hữu, quyền thừa kế và quyền khác đối với tài sản.
Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó.
Quan trọng: Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
Năng lực hành vi dân sự là gì?
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. (Theo quy định tại Điều 19 Bộ luật dân sự 2015)
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân phát sinh và chấm dứt khi nào?
Pháp luật dân sự công nhận mọi cá nhân có năng lực pháp luật dân sự bình đẳng như nhau từ khi sinh ra cho đến khi chết vì các chủ thể của quan hệ dân sự luôn bình đẳng với nhau. Theo nguyên lý chung của pháp luật dân sự, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ lúc người đó sinh ra và gắn liền với một cá nhân suốt đời cho đến khi chết, không chịu ảnh hưởng của tuổi tác, trạng thái tâm thần, tình trạng tài sản, địa vị xã hội, kinh nghiệm sống… Trong một số trường họp cần thiết, luật dân sự còn công nhận và bảo vệ quyền lợi cho cá nhân khi người đó còn là thai nhi (xem thêm quy định về người thừa kế tại Điều 613 Bộ luật dân sự năm 2015).
Khoản 2 Điều 16 Bộ luật dân sự 2015 quy định:
“Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau.”
Nhưng năng lực hành vi dân sự của cá nhân lại chỉ có khi đã đạt đến một độ tuổi nhất định và có trí tuệ phát triển bình thường. Khi cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về những hành vi của chính mình thì phải hiểu và làm chủ được hành vi của chính cá nhân đó. Nghĩa là, về ý chí cá nhân đó phải nhận thức được việc mình đã làm hoặc sẽ làm, về lý trí phải làm chủ được hành vi của mình. Với những lứa tuổi khác nhau, tình trạng tâm thần khác nhau, kinh nghiệm sống khác nhau… sẽ có sự nhận thức khác nhau.
Do đó, pháp luật dân sự không thể công nhận sự bình đẳng về năng lực hành vi trong mọi trường hợp như năng lực pháp luật. Vì vậy, để có thể thực hiện được hành vi, làm chủ được hành vi đó khi tham gia các quan hệ dân sự, cá nhân (với tư cách chủ thể của quan hệ dân sự) phải bảo đảm một số yếu tố nhất định về: độ tuổi, tình trạng tâm thần, kinh nghiệm sống… Tùy thuộc vào độ tuổi, sự phát triển về trí tuệ và khả năng nhận thức, BLDS năm 2015 tiếp tục phân chia năng lực hành vi dân sự theo các tiêu chí sau đây: Người thành niên, người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự. Mỗi chủ thể là cá nhân này có năng lực hành vi dân sự khác nhau.

Các loại năng lực hành vi dân sự
Bộ luật dân sự 2015 có chia thành các loại năng lực hành vi dân sự sau đây:
1. Năng lực hành vi dân sự đầy đủ
Khoản 2 Điều 20 Bộ luật Dân sự năm 2015 nêu rõ:
Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại các điều 22, 23 và 24 của Bộ luật này.
Theo quy định này có thể xác định một người được coi là có năng lực hành vi dân sự đầy đủ sẽ gồm các đặc điểm:
– Là người thành niên: Người thành niên là người có độ tuổi từ đủ 18 trở lên.
– Không thuộc các trường hợp: Mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức hoặc làm chủ hành vi và bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Theo đó, khi có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, cá nhân có toàn quyền thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Song song với đó người này cũng phải tự mình chịu hoàn toàn trách nhiệm với các hành vi mà mình thực hiện.
2. Mất năng lực hành vi dân sự
Quy định về mất năng lực hành vi dân sự là gì được nêu tại Điều 22 Bộ luật Dân sự. Theo đó, mất năng lực hành vi dân sự là trạng thái của năng lực hành vi dân sự khi đáp ứng các điều kiện:
– Bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác không thể nhận thức, làm chủ hành vi của mình.
– Người có quyền, lợi ích liên quan yêu cầu Toà án ra quyết định tuyên bố một người bị mất năng lực hành vi dân sự sau khi đã giám định pháp y tâm thần và có kết luận về điều này.
– Đã được Toà án ra quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự.
Có thể thấy, so với người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, việc mất năng lực hành vi dân sự là việc mà một người không thể bằng hành vi, khả năng của mình để tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ liên quan.
Khoản 2 Điều 22 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng khẳng định, người mất năng lực hành vi dân sự không thể tự mình thực hiện các giao dịch mà những giao dịch này phải do người đại diện theo pháp luật của họ thực hiện, xác lập.
3. Hạn chế năng lực hành vi dân sự
Quy định này được nêu tại Điều 24 Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo đó, khi người có quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan hữu quan yêu cầu thì Toà án có thể ra quyết định tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự trong trường hợp:
– Nghiện ma tuý dẫn đến phá tán tài sản.
– Nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản.
Trong quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, Toà án sẽ quyết định người đại diện theo pháp luật cùng phạm vi đại diện của người này với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Khi đó, các giao dịch liên quan đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải được người đại diện đồng ý trừ những giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt của người này hoặc pháp luật có quy định khác.
4. Khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
Một trong những trạng thái của năng lực hành vi dân sự là khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi. Theo đó, Điều 23 Bộ luật Dân sự nêu rõ:
Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.
Theo quy định này, Toà án sẽ ra quyết định tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi khi đáp ứng các điều kiện:
– Người thành niên không có đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự do tình trạng thể chất hoăc tinh thần.
– Có kết luận giám định pháp y tâm thần hợp pháp.
– Do chính người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người có quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan yêu cầu.
Trong quyết định tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, Toà án sẽ chỉ định người giám hộ cũng như xác định quyền và nghĩa vụ của người này.
Trên đây là nội dung về năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo Bộ luật dân sự 2015 đang có hiệu lực thi hành.